
Cúp các đội vô địch bóng đá châu Âu (tiếng Anh: European Cup hoặc UEFA Champions League; tên thường gọi ở Việt Nam: Cúp C1) là giải bóng đá hàng năm của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) dành cho các câu lạc bộ vô địch quốc gia hay xếp hạng hai, ba, tư ở một số giải vô địch quốc gia mạnh. Nhà vô địch đầu tiên của giải đấu là Real Madrid sau khi đánh bại Stade de Reims ở trận chung kết.
Đương kim vô địch của giải đang là Real Madrid sau khi đánh bại Atletico Madrid với tỉ số 4-1 trên Estádio da Luz, Lisbon.
Bên cạnh đó, Liên đoàn bóng đá châu Âu cũng tổ chức Cúp các đội nữ vô địch bóng đá quốc gia châu Âu (UEFA Women's Champions League)
Lịch sử
Năm 1954, Gabrief Hanot - của báo L'Equipe - đã đề xuất một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ.
Trận đấu đầu tiên đã diễn ra ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) giữa Sporting Lisbon và FK Partizan (Nam Tư), kết quả hòa 3-3. Và đội vô địch đầu tiên là Real Madrid (giải có 16 đội tham dự).
Từ mùa bóng 1992/1993, giải được đổi tên thành "UEFA Champions League". Và đến mùa bóng 1997/1998, có một sự thay đổi lớn trong điều lệ giải, ngoài các đội vô địch quốc gia, các đội có thứ hạng cao trong mỗi giải vô địch (tùy theo mỗi quốc gia) cũng có quyền tham dự. Mùa bóng năm 2005/2006 và 2006/2007, 3 quốc gia Tây Ban Nha, Anh và Ý (từ mùa bóng 2013-2014 Ý chỉ còn 3 đội tham dự, vì Đức đã lấy mất một xuất của Ý), được quyền cử 4 đội tham gia.
Nhạc hiệu
Bản nhạc nền Cúp C1 Châu Âu, tên chính thức được gọi đơn giản là "Champion League", do nhà soạn nhạc người Anh Tony Britten soạn theo phong cách của nhà soạn nhạc người Đức George Frideric Handel (1658-1759), được giàn nhạc Royal Philharmonic Orchestra (London - Anh) trình bày. Bản nhạc có mang nhiều âm hưởng của bản Zadok the Priest của Handel.
Chiếc cúp
Cúp cao 74 cm, nặng 8 kg và đắt giá nhất khoảng 200.000 Franc. Đội đoạt cúp còn được nhận 20 Huy chương vàng và một phiên bản cúp, đồng thời có quyền giữ chiếc cúp thật trong vòng một năm trước khi trao lại cho UEFA "trong tình trạng nguyên xi" (nếu hư hại sẽ bị phạt nặng), một tháng trước trận chung kết lần sau.

Nếu 3 lần liên tiếp đoạt chức vô địch, hoặc 5 lần khác nhau, đội có quyền sở hữu vĩnh viễn chiếc cúp và lúc này UEFA phải làm một chiếc cúp khác hoàn toàn giống hệt. Tính tới thời điểm hiện tại, có 5 câu lạc bộ có được vinh dự này là: Real Madrid (10 lần vô địch); A.C Milan (7 lần); FC Bayern München (5 lần, trong đó 3 lần liên tiếp); Liverpool FC (5 lần); Ajax Amsterdam (4 lần, trong đó 3 lần liên tiếp).
8 ngôi sao trên biểu tượng quả bóng của Cúp C1 (UEFA Champions League) là biểu tượng cho 8 đội bóng từng bảo vệ thành công chức vô địch (Real Madrid, SL Benfica, Inter Milan, Ajax Amsterdam, Bayern Munchen, Liverpool, Nottingham Forest, A.C. Milan).
Quy định
Các đội tham dự và thể thức thi đấu
Từ khởi đầu tới mùa bóng 1996-1997
Kể từ khi ra đời với tên gọi European Champion Clubs' Cup (tức Cúp C1), giải đấu này chỉ dành cho các đội đoạt chức vô địch quốc gia tại giải vô địch hạng cao nhất của các quốc gia châu Âu là thành viên của UEFA và đội đương kim vô địch của mùa giải trước - đang giữ cúp.
Vì vậy, nếu một đội bóng không bảo vệ được danh hiệu vô địch trong nước nhưng đoạt được cúp C1 thì năm sau tiếp tục được dự giải và quốc gia đó sẽ là nước duy nhất có 2 đội dự Cúp C1. Nếu đội vô địch Cúp C1 đồng thời đoạt "cú đúp" - vô địch cả giải trong nước thì quốc gia đó vẫn chỉ có 1 đội dự cúp này như những nước khác. Trong cả trường hợp đội vô địch Cúp C1 bị xuống hạng ở giải trong nước vẫn được dự giải này trong mùa bóng tiếp theo.
Thể thức duy nhất mà UEFA áp dụng từ năm 1955 tới năm 1991 là phân cặp đấu loại trực tiếp từ vòng đầu tới vòng cuối cùng. Vòng đầu có 32 đội, lần lượt qua 5 lượt tới trận chung kết còn 2 đội.
Mùa bóng 1986-1987, vòng 1 Cúp C1 chỉ có 31 đội tham dự do sự cố chính trị làm vắng mặt 1 thành viên. Do đó đội đương kim vô địch là Steaua Bucharest của Rumani được vào thẳng vòng 2.
Ở mùa giải 1991/92, Cúp C1 vẫn mang tên là European Champion Clubs' Cup như trước đây, nhưng UEFA đã thử nghiệm một thể thức thi đấu mới. 8 đội lọt vào tứ kết được chia làm 2 bảng thi đấu vòng tròn một lượt (vẫn gồm 2 lượt trận sân nhà sân khách cho mỗi cặp đấu), chọn ra 2 đội đầu bảng vào thi đấu trận chung kết.
Chiếc Cup vô địch của Ajax năm 1971
Mùa giải 1992/93, giải bóng đá này chính thức được đổi tên thành UEFA Champions League - giải đấu của các nhà vô địch. Lúc này, vòng tứ kết vẫn gồm 8 đội nhưng lại có thêm vòng bán kết. Trận bán kết diễn ra giữa đội nhất bảng này gặp nhì bảng kia, nhưng chỉ thi đấu một trận duy nhất trên sân của những đội nhất bảng.
Real Madrid là đội bóng giữ kỷ lục lâu bị loại ở Cúp C1 nhất. Tính từ khi tham gia năm 1955 tới năm 1960, Real Madrid liên tục vô địch cúp này 5 năm và chưa từng bị loại. Tới mùa bóng 1960-1961, Real cùng FC Barcelona là đội vô địch trong nước cùng đại diện cho Tây Ban Nha dự giải. Do thời đó chưa có quy định hạt giống nên việc bốc thăm ngẫu nhiên khiến Real Madrid và Barcelona gặp nhau ngay vòng đầu. Kết quả Barcelona đã loại Real bằng kết quả hoà 2-2 ở sân Bernabeu và thắng 2-1 ở sân Nou Camp. Đó là lần đầu tiên Real Madrid bị loại ở Cúp C1.
Từ mùa bóng 1997-1998
UEFA mở rộng số đội tham dự, cho phép các nước có thành tích cao nhất được cử 2 đại diện tham dự - đội vô địch và đội á quân. Do số đội tăng lên, số đội dự vòng bảng là 16 và do đó có 4 bảng sau 2 vòng đầu. 8 đội đứng đầu 4 bảng lọt vào vòng tứ kết, đấu loại trực tiếp tới chung kết.
Trong những năm tiếp theo, do sức ép từ phía nhóm G-14, các đội bóng mạnh và giàu có ở châu Âu, UEFA mở rộng đối tượng tham dự Champions League hơn, cho phép 3 quốc gia có thành tích cao nhất được cử tới 4 đội tham dự, các nước có thành tích thấp hơn có số đội tham dự giảm dần, để tạo điều kiện cho những đội bóng giàu có có cơ hội đoạt Cúp này ngay cả khi không vô địch trong nước nhiều năm liền.
Các vòng loại cho các đội yếu từ những nước có hệ số điểm thấp được thu xếp từ mùa hè để bắt đầu vào tháng 9, vòng 1 bắt đầu là vòng đấu bảng với số đội tham gia là 32 đội tại 8 bảng đấu.
Quy định mở rộng đối tượng tham dự này khiến cho giải thực chất không còn đúng với tên gọi "giải đấu của các nhà vô địch" - Champions League nữa.
Quy định hiện nay
Vòng sơ loại đầu tiên: gồm 6 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 49-54.
Vòng sơ loại thứ nhì: gồm 34 đội [31 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 17-48 (ngoại trừ Liechtenstein) và 3 đội thắng ở vòng sơ loại đầu tiên]
Vòng sơ loại thứ ba: gồm 30 đội được chia thành 2 nhóm:
-Nhóm các đội vô địch quốc gia: gồm 20 đội bóng (3 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 14-16 và 17 đội thắng từ vòng loại thứ nhì)
-Nhóm các đội không vô địch quốc gia: gồm 9 đội á quân quốc gia các nước được xếp hạng từ 7-15 và 1 đội xếp thứ 3 quốc gia nước xếp hạng 6
Vòng Play-off: gồm 20 đội bóng được chia làm 2 nhóm
- Nhóm các đội vô địch quốc gia:gồm 10 đội chiến thắng ở vòng sơ loại thứ 3 trong nhóm các đội vô địch quốc gia
- Nhóm các đội không vô địch quốc gia:gồm 10 đội (2 đội xếp thứ 3 quốc gia các nước được xếp hạng từ 4-5, 3 đội thứ đứng 4 quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-3 và 5 đội giành chiến thắng vòng sơ loại thứ 3 trong nhóm các đội không vô địch quốc gia)
Vòng đấu bảng: gồm 32 đội, chia làm 8 bảng (4 đội/bảng): 13 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-13, 6 đội hạng nhì quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-6, 3 đội hạng ba quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-3 và 10 đội chiến thắng ở vòng Play-off
Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ được vào vòng sau.
Các đội bị loại khi xếp hạng thứ 3 tại vòng bảng được chuyển sang thi đấu từ vòng 1 Europe League.
Vòng 1/8: (các đội nhì bảng gặp các đội đầu bảng, các đội nhì bảng đá sân nhà trước): các CLB cùng một liên đoàn cũng như từng gặp nhau tại vòng bảng thứ nhất không chung bảng.
Vòng tứ kết: Bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
Vòng bán kết: bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
Chung kết: đấu 1 trận duy nhất trên sân trung lập. Nếu hòa đá 2 hiệp phụ.
Tại vòng 1/8, tứ kết và bán kết nếu sau 2 lượt tổng tỷ số bằng nhau (nếu đội nào có số bàn thắng trên sân khách nhiều hơn sẽ dành quyền đi tiếp) sẽ đá hiệp phụ cổ điển (không tính bàn thắng vàng hay bạc), nếu vẫn hòa sẽ đá luân lưu xác định đội thắng thua.
Với quy định mới, sẽ có nhiều ngôi sao góp mặt hơn ở giải đấu dánh giá này
Xếp hạng vòng bảng
Đội thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm. Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
- Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Ghi được nhiều bàn thắng trên sân của đối phương hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại của tất cả các trận đấu trong bảng cao hơn.
- Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đấu trong bảng.
- Hệ số điểm của quốc gia vào thời điểm đầu mùa bóng (Hệ số này do UEFA thiết lập và xếp hạng).
Tiền thưởng
Đến mùa giải 2012–13, UEFA trao 2,1 triệu Euro cho mỗi đội tham dự vòng loại. Với đội lọt vào vòng bảng, họ sẽ nhận thêm 8,6 triệu Euro từ UEFA. Đội thắng trong 1 trận vòng bảng nhận thêm 1 triệu Euro và nếu hòa nhận thêm 500.000 Euro.
Đối với vòng 16 đội, UEFA thưởng cho mỗi đội 3,5 triệu Euro, và đối với vòng tứ kết mỗi đội nhận thêm 3,9 triệu Euro. Mỗi đội trong bốn đội vào bán kết nhận 4,9 triệu Euro, và đội Á quân được thưởng 6,5 triệu Euro. Đội vô địch được UEFA thưởng 10,5 triệu Euro
Doanh thu và lợi nhuận của UEFA Champions League đến từ quảng cáo, vé trận đấu... cũng như bản quyền truyền hình tại mỗi quốc gia sẽ được dùng để chia thưởng cho các CLB cũng như liên đoàn các quốc gia có CLB tham dự.
UEFA (ngày 10 tháng 8 năm 2012) ước tính doanh thu từ UEFA Champions League và UEFA Super Cup là 1,34 tỷ Euro.
Các kỷ lục
- Cầu thủ già nhất ghi bàn: Ryan Giggs của Manchester United, 37 tuổi 289 ngày, ghi bàn ngày 27-4-2011 trong trận gặp Schalke 04.
- Cầu thủ trẻ nhất ghi bàn: Peter Ofori-Quaye của Olympiacos, 17 tuổi 194 ngày, ghi bàn ngày 17-10-1997 trong trận gặp Rosenborg.
- Trận chung kết có tỷ số cao nhất: Năm 1960 giữa Real Madrid - Eintracht Frankfurt: 7-3
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất: Raúl González - 73 bàn (tính đến ngày 1 tháng 04 năm 2011)
Raúl González là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất
- Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong 1 mùa: 17 bàn Cristiano Ronaldo mùa 2013/2014 (không tính vòng sơ loại)
- Cầu thủ ghi bàn tại nhiều trận chung kết liên tiếp: Alfredo Di Stéfano (Real Madrid): 5 trận chung kết liên tiếp, từ 1956 - 1960.
- Câu lạc bộ đoạt nhiều cúp nhất: Real Madrid (10 lần: 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, 2002, 2014)
- Câu lạc bộ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Real Madrid (12 lần). Nếu chỉ tính từ khi đổi tên thì Milan là số 1 với 6 lần đoạt 3 cúp.
- Cầu thủ đoạt nhiều cúp C1 nhất: Francisco Gento (Real Madrid) với 6 lần
- Cầu thủ tham gia nhiều trận chung kết nhất: Francisco Gento (Real Madrid) và Paolo Maldini (AC Milan) cùng 8 lần có mặt trong trận chung kết cúp C1.
- Bàn thắng nhanh nhất trong trận chung kết: do công của Paolo Maldini (số 3, AC Milan) ghi vào giây thứ 51, trận Liverpool - AC Milan năm 2005 và anh cũng thiết lập luôn kỉ lục cầu thủ lớn tuổi nhất ghi bàn trong 1 trận chung kết.
- Bàn thắng nhanh nhất giải Champion League: thực hiện giây thứ 10,2 do công của Roy Makaay trong trận Bayern München - Real Madrid C.F. lượt về vòng 2, mùa giải 2006-2007.
- Cầu thủ lớn tuổi nhất tham gia trận chung kết: Dino Zoff (thủ môn Juventus) ra sân năm 1983 khi 41 tuổi 86 ngày; còn tính Champions League thì Edwin van der Sar (thủ môn Manchester United) ra sân trận chung kết 2011 khi 41 tuổi 211 ngày.
- Đội bóng thất bại trong nhiều trận chung kết nhất: S.L. Benfica (Bồ Đào Nha): 5 lần (1963, 1965, 1968, 1988, 1990), Juventus FC (Italia): 5 lần (1973, 1983, 1997, 1998, 2003) và Bayern München (Đức): 5 lần (1982, 1987, 1999, 2010, 2012)
- Cầu thủ đầu tiên giành Cúp C1 trong màu áo 2 câu lạc bộ khác nhau: Belodedici (người Rumani): năm 1986 vô địch với Steaua Bucharest và 1991 vô địch với Sao Đỏ Belgrade. Cầu thủ đầu tiên đạt thành tích này với 2 câu lạc bộ trong 2 năm liên tiếp là Marcel Desailly: năm 1993 với Olympique de Marseille và năm 1994 với AC Milan, sau đó là Gerard Piqué: năm 2008 với Manchester United và năm 2009 với FC Barcelona, tiếp đó là Samuel Eto'o: năm 2009 với FC Barcelona và năm 2010 với Inter Milan.
- Cầu thủ duy nhất đoạt cúp 4 lần với 3 CLB khác nhau: Clarence Seedorf: Ajax Amsterdam (1995), Real Madrid (1998), AC Milan (2003, 2007).
- Huấn luyện viên giành nhiều cúp nhất với một câu lạc bộ: Bob Paisley, dẫn dắt Liverpool trong giai đoạn 1974-1983 với 3 lần được tận hưởng vinh quang kể trên (1977, 1978, 1981).
- Huấn luyện viên giành cúp 2 lần với 2 CLB khác nhau: Carlo Ancelotti (AC Milan 2003, 2007, Real Madrid 2014), Ernst Happel (Feyenoord 1970, Hamburger SV 1983), Ottmar Hitzfeld (Borussia Dortmund 1997, Bayern Munich 20010, José Mourinho (F.C. Porto 2004, Inter Milan 2010) và Jupp Heynckes (Real Madrid 1998, Bayern Munich 2013).
- Cầu thủ già nhất giành cúp: Ferenc Puskás của Real Madrid, khi đã 39 tuổi 39 ngày vào ngày 11-5-1966.
- Cầu thủ trẻ nhất giành cúp: Gary Mills của Nottingham Forest, khi mới 18 tuổi 199 ngày vào ngày 28-5-1980.
Xếp hạng các quốc gia có số lần vô địch nhiều nhất
